Khi chẩn đoán bệnh gout, acid uric luôn được gọi tên đầu tiên trong danh sách thủ phạm gây ra căn bệnh này. Nhưng, trên thực tế, acid uric tăng cao còn là nguyên nhân nguy cơ của rất nhiều loại bệnh còn nguy hiểm hơn nhiều.
Acid uric là gì?
– Acid uric (a.uric) là dòng sản phẩm đưa hóa diễn ra bỗng nhiên trong thân thể bọn họ. A.uric máu có nguồn gốc: nội sinh, là khi các tế bào bị chết, nhân của chúng sẽ mắc hủy hoại và chuyến hóa thành a.uric; ngoại sinh, khởi đầu từ những loại đồ ăn động vật như thịt, cá và một số con cái đường đưa hóa khác.
– Hàm lượng a.uric máu thông thường vào chặng 420micromol/lít ở phái mạnh và 360 micromol/lít ở bạn nữ. Khi nồng độ quá quá ngưỡng bên trên thì được gọi điện là tăng a.uric máu. Hàng ngày, lượng a.uric dư quá sẽ đc vứt bỏ 80% qua nước tiểu và chặng 20% qua đường hấp thụ và những giọt mồ hôi.
– Có rất nhiều nguyên nhân gây tăng a.uric máu nhưng tóm lại là vì hai nhóm chính như sau:
- Tăng tổng hợp a.uric (ví dụ như do ăn không ít thịt cá, do xáo trộn gửi hóa a.uric bẩm sinh)
- Giảm đào thải a.uric (ví dụ như do suy thận…).
Tác hại của tăng Acid uric tăng cao
-
Bệnh lý thận và cao huyết áp
Gây ra các bệnh lý cao huyết áp, biểu hiện chuyển hóa, bệnh mạch vành, bệnh mạch não, đột quỵ não và suy giảm trí tuệ có yếu tố mao mạch, tiền sản giật, bệnh thận. Mối liên quan giữa nồng độ a.uric máu với bệnh lý tim mạch không những xảy đến ở ngưỡng tăng sự thật (khi hàm lượng a.uric máu thừa vượt ngưỡng nêu trên) mà còn xảy ra ở nồng độ thông thường đến ngưỡng cao (từ 310 – 330micromol/lít).
Acid uric tăng cao cũng chính là yếu tố có giá trị tiên lượng có mặt những biến cố tim mạch ở người mắc bệnh suy tim, bệnh lý mạch vành.
– Tỷ Lệ người bệnh người lớn tăng huyết áp tiên phát không đc chữa trị có tăng a.uric máu chiếm từ 25-60% và Phần Trăm này giao động 90% ở các trường hợp tăng huyết áp tuổi thanh thiếu hụt niên.
-
Bệnh lý mao mạch
Với những bệnh lý mao mạch, nồng độ a.uric tăng cao tác động đến nhiệm vụ của lớp tế bào nội mạc động mạch, kích thích giải phóng các gốc tự do, hoạt hóa các chất trung gian của quá trình viêm, gây tăng kết tụ giải cầu, tạo những vi huyết khối, các phản xạ viêm mạn tính và về dài lâu làm tổn hại thành mạch. A.uric tăng cao cũng chính là Lý do có trị giá tiên lượng xuất hiện các biến cố tim mạch ở đối tượng bị bệnh suy tim, bệnh lý mạch vành mặc dù vẫn chưa phân định đc hiện tượng tăng a.uric ở những bệnh nhân này là Yếu tố hay chỉ là hậu quả của thụt giảm chức năng thận ở những người bị bệnh suy tim.
Với những bệnh lý thận, những khám phá thực nghiệm trên động vật và thử nghiệm lâm sàng đều lưu ý rằng sự việc tăng a.uric có khả năng dẫn đến bệnh thận mà không do ngọt ngào tinh thể urate. Tăng a.uric có ảnh hưởng đến chức năng thận thông qua việc gây hại các tĩnh mạch thận, làm mất chế độ tự điều hòa của thận, đặc biệt quan trọng ở những người bệnh giải tháo đường. Chữa trị làm tránh hàm lượng a.uric máu hỗ trợ làm chậm các bước tiến triển của bệnh lý thận, nhất là ở các bệnh nhân có lượng a.uric máu không hề nhỏ.
Tăng acid uric máu cũng đặc biệt có liên quan đến các bệnh lý mạch ngoại vi.
-
Béo phì và đái tháo đường
Ngày càng gia tăng các dẫn chứng cho biết a.uric có khả năng đóng góp vào hiện tượng có mặt các bất định trong hiện tượng chuyển hóa. Ngày xưa, người ta nghĩ rằng, hàm lượng acid uric tăng cao trong dấu hiệu đưa hóa là do cường insulin, vì insulin làm giảm tiết acid uric ở thận. Tuy thế, thực ra trong Rất nhiều trường hợp, tăng acid uric lại có mặt trước cường insulin, béo phì và đái tháo đường. Ở những bệnh nhân đái tháo đường có tăng a.uric thì Tỷ Lệ chuyển biến và tử vong cao hơn ở group đối tượng mắc bệnh đái tháo đường không có tăng a.uric.
-
Bệnh lý mạch ngoại vi, mạch cảnh
Tăng a.uric máu cũng đặc biệt có quan hệ đến các bệnh lý mạch ngoại vi, mạch cảnh, tiền sản giật và chứng sa bớt trí tuệ có Lý do tĩnh mạch. Những tìm hiểu cũng đã chứng minh được việc trị bệnh hạ a.uric đóng góp thêm phần làm đề phòng hoặc tránh tiến triển của các bệnh lý này trên thực nghiệm và lâm sàng.
Cho dù còn tồn tại các vấn đề tranh cãi và nên làm sáng tỏ hơn, nhưng cho đến nay, nhìn chung, phần lớn các ý kiến đều thống nhất về vai trò của a.uric trong những bệnh lý huyết áp, tim mạch, đái tháo đường, bệnh lý thận, tiền sản giật và hiện tượng kiểm soát nồng độ a.uric máu là hết sức cần thiết. Thông qua một chế độ ăn uống phù hợp, một lối sống sử dụng biện pháp an toàn và điều trị bằng các liệu pháp hạ a.uric máu nếu cần.